Làm thế nào để phân biệt được
phương pháp học tập nào thật sự hữu ích hay chỉ tổ làm bạn lãng phí thời gian?
Một nghiên cứu mới đây lần đầu tiên chỉ ra phương cách tốt nhất để thu nạp kiến
thức.
Giáo
dục thường tập trung vào nội dung bạn cần học, chẳng hạn như môn đại số, hay
các nguyên tố trong bảng tuần hoàn hóa học, hoặc làm thế nào để chia động từ.
Tuy nhiên nếu học được cách học hiệu quả có thể cũng sẽ quan trọng không kém vì
nó sẽ đem lại ích lợi cả đời cho người học. Học đúng phương pháp có thể
giúp bạn tiếp thu kiến thức nhanh hơn, hiệu quả hơn, khiến bạn có thể ghi nhớ
thông tin trong nhiều năm thay vì chỉ nhiều ngày.
Trong
hơn 100 năm qua, các nhà tâm lý học giáo dục và tâm lý học nhận thức đã nghiên
cứu và đánh giá rất nhiều phương pháp học tập khác nhau, từ cách đọc đi đọc lại
đến cách tóm tắt kiến thức cho đến phương pháp tự kiểm tra. Một số chiến lược
học tập phổ biến đã giúp cải thiện rõ rệt thành tích của người học, trong khi
những chiến lược khác chỉ làm tốn thời gian và không hiệu quả. Tuy nhiên, thông
tin này chưa được phổ biến đến người học và người dạy. Ngày nay, giáo viên
không được nói cho biết các phương pháp học tập nào là hiệu quả dựa trên chứng
cứ thực nghiệm, và học sinh cũng không được dạy cho cách sử dụng những phương
pháp học tập tốt. Trong thực tế, hai phương pháp hỗ trợ học tập mà người học sử
dụng nhiều nhất hóa ra lại không hiệu quả. Một trong số chúng thậm chí có thể
làm giảm đi kết quả học tập.
Một
lý do chủ yếu cho hiện tượng nói trên là có một lượng rất lớn các nghiên cứu về
vấn đề này, đến nỗi gây khó khăn cho các nhà giáo dục và cho người học trong
việc xác định được phương cách học tập thiết thực và thuận lợi nhất. Để vượt
qua thách thức này, chúng tôi đã xem xét hơn 700 bài báo khoa học về 10 phương
pháp học tập phổ biến. Chúng tôi tập trung vào các chiến lược học tập dường như
dễ sử dụng và có hiệu quả rộng rãi. Trong đó, chúng tôi xem xét kỹ hơn đến một
vài phương pháp rất phổ biến với người học.
Chúng
tôi chỉ khuyến nghị các phương pháp sao cho chúng phải có ích trong nhiều điều
kiện học tập khác nhau, chẳng hạn như khi sinh viên làm việc một mình hoặc
trong một nhóm. Ngoài ra, chúng phải hỗ trợ được cho học viên ở nhiều độ tuổi,
khả năng và trình độ khác nhau. Và nhất là chúng phải được kiểm nghiệm thực tế.
Học viên có thể sử dụng những phương pháp này để làm chủ kiến thức trong nhiều
môn học, và thành tích học tập của họ sẽ được cải thiện theo mọi tiêu chuẩn
đánh giá. Các phương pháp học tập tốt nhất cũng sẽ có tác dụng lâu dài trong
việc nâng cao kiến thức và hiểu biết cho người học.
Sử dụng các tiêu chí này, chúng
tôi xác định hai phương pháp có hiệu quả nổi trội. Chúng có hiệu quả ổn định và
lâu dài cho nhiều điều kiện học tập khác nhau. Hơn ba phương pháp khác cũng
được khuyến nghị trong một số điều kiện học tập nhất định, và năm phương pháp
khác – bao gồm hai phương pháp học tập phổ biến – là không được khuyến nghị sử
dụng. Hoặc là bởi vì chúng chỉ có ích trong một số trường hợp rất hạn chế, hoặc
là vì chúng tôi không đủ chứng cứ để đánh giá chúng cao hơn. Chúng tôi cũng
khuyến khích các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu một số phương pháp khác chưa
được chúng tôi kiểm tra, nhưng học viên và giáo viên nên thận trọng khi áp dụng
chúng.
Hai
phương pháp vàng
1.
Phương pháp tự kiểm tra (Self-Testing): Tự kiểm tra đem lại điểm cao.
Mô tả phương pháp: Không giống
như một bài kiểm tra chính thức để đánh giá kiến thức, tự kiểm tra là việc
người học tự thực hành để kiểm tra chính mình, ở bên ngoài lớp học. Phương pháp
này có thể bao gồm việc sử dụng các tấm bìa (bằng giấy hoặc điện tử) để kiểm
tra việc nhớ lại hoặc trả lời các bài tập ở cuối một chương sách. Mặc dù hầu
hết học sinh đều muốn làm kiểm tra ít chừng nào tốt chừng ấy, hàng trăm thí
nghiệm cho thấy rằng tự kiểm tra giúp cải thiện việc học và giúp ghi nhớ được
lâu.
Trong
một nghiên cứu, các sinh viên đại học được yêu cầu ghi nhớ các cặp từ, một nửa
trong số đó sau đó được tham gia một bài kiểm tra khả năng nhớ lại. Một tuần
sau, các sinh viên này nhớ được 35% các cặp từ trong bài kiểm tra, so với chỉ
có 4% đối với những sinh viên không tham gia kiểm tra. Trong một thí nghiệm
khác, các sinh viên đại học được tiếp xúc với một bản dịch từ tiếng Swahili
sang tiếng Anh. Tiếp theo, họ dùng phương pháp tự kiểm tra để học một phần văn
bản, phần văn bản còn lại chỉ được họ đọc lại. Sinh viên nhớ lại được 80% trong
phần mà họ đã học bằng cách tự kiểm tra nhiều lần, so với chỉ có 36% cho phần
mà họ chỉ đọc lại. Giả thuyết của chúng tôi là việc tự kiểm tra thực hành sẽ
giúp tạo nên quá trình tìm kiếm trong não bộ liên quan đến khả năng ghi nhớ dài
hạn để kích hoạt các thông tin liên quan, qua đó hình thành nhiều lối mòn ghi
nhớ, giúp truy cập thông tin dễ dàng hơn.
Lứa
tuổi nào có thể sử dụng phương pháp này? Bất cứ ai từ trẻ mẫu giáo đến sinh
viên y khoa năm thứ tư cho đến người có tuổi trung niên đều được lợi khi sử
dụng phương pháp tự kiểm tra này. Nó có thể áp dụng được cho tất cả các loại
thông tin không trừu tượng, bao gồm việc học ngữ vựng, lập danh sách chính tả,
và ghi nhớ các bộ phận của hoa. Thậm chí nó còn cải thiện được khả năng nhớ lâu
cho những người bị bệnh Alzheimer. Tóm lại, phương pháp tự kiểm tra một cách
thường xuyên có hiệu quả nhất trong việc học, đặc biệt là khi người học nhận
được thông tin phản hồi cho các câu trả lời đúng của họ.
Phương
pháp tự kiểm tra cũng hoạt động tốt ngay cả khi thể thức của các bài kiểm tra
khi thực hành khác với các bài kiểm tra chính thức. Tác dụng có lợi của phương
pháp này có thể kéo dài từ nhiều tháng cho đến nhiều năm.
Phương
pháp này có dễ thực hiện không? Câu trả lời là “Có”. Nó chỉ cần một lượng thời
gian khiêm tốn và người học cần được huấn luyện một ít hoặc thậm chí không
không cần.
Sử
dụng phương pháp này như thế nào? Người học có thể dùng các tấm bìa để tự kiểm
tra hoặc sử dụng hệ thống Cornell như sau: Trong quá trình ghi bài trên lớp,
hãy tạo ra một cột bên một lề của trang để ghi ra các từ khóa hoặc câu hỏi. Sau
đó bạn có thể tự kiểm tra bằng cách duyệt lại các ghi chép này và trả lời các
câu hỏi (hoặc giải thích các từ khóa) được ghi bên lề.
Đánh giá: Phương pháp này có
hiệu quả cao. Việc tự kiểm tra có thể thực hiện được một cách rộng rãi trên
nhiều thể thức, nội dung, lứa tuổi, và khoảng thời gian cần ghi nhớ.
2 .
Phương pháp phân bổ thời gian ôn tập (Distributed Practice): Để đạt kết quả tốt
nhất, hãy giãn rộng thời gian học của bạn ra.
Mô tả phương pháp: Học sinh
thường tập trung học nhồi ngay trước khi có bài thi hoặc kiểm tra. Tuy nhiên
nghiên cứu cho thấy việc phân phối thời gian học tập hợp lý sẽ hiệu quả hơn
nhiều. Trong một thí nghiệm kinh điển, học sinh được học các từ tiếng Anh được
dịch ra từ các từ trong tiếng Tây Ban Nha, sau đó ôn lại trong sáu phiên. Một
nhóm đã ôn trong các phiên liên tiếp nhau, một nhóm ôn các phiên cách ngày và
một phần ba số học sinh còn lại đã ôn các phiên cách nhau 30 ngày. Các học sinh
trong nhóm cuối nhớ bản dịch tốt nhất. Trong một phân tích 254 nghiên cứu được
thực hiện liên quan đến hơn 14.000 người tham gia, sinh viên nhớ lại được nhiều
hơn khi phân bổ thời gian học cách quãng (nhớ được 47% của toàn bộ) so với việc
học dồn (nhớ được 37%).
Lứa
tuổi nào có thể thực hiện được phương pháp này? Phương pháp này giúp ích được
cho cả trẻ ba tuổi, lẫn sinh viên đại học và cả người lớn tuổi hơn. Việc phân
phối thời gian học hợp lý có hiệu quả cao cho việc học ngữ vựng, học định nghĩa
của từ, và thậm chí cả việc học các kỹ năng như toán học, âm nhạc và phẫu
thuật.
Phương
pháp này có dễ thực hiện không? Câu trả lời là “Có.” Mặc dù sách giáo khoa
thường gộp các bài tập lại với nhau theo chủ đề, bạn có thể ngắt chúng ra theo
cách của mình. Bạn sẽ phải lên kế hoạch trước, và phải vượt qua được trở ngại
chung của người học là xu hướng hay trì hoãn việc ôn bài.
Sử
dụng phương pháp như thế nào? Khoảng cách lâu hơn giữa các lần ôn bài thường có
hiệu quả cao hơn. Trong một nghiên cứu, khoảng cách 30 ngày cải thiện kết quả
nhiều hơn so với việc ôn bài vất vả cách ngày. Trong một nghiên cứu dựa trên
Internet về việc học ngữ pháp, tu từ và logic, kết quả cao nhất đạt được khi
các phiên ôn bài cách nhau khoảng từ 10 đến 20% của khoảng thời gian mà người
học cần phải nhớ được kiến thức. Để nhớ một điều gì đó trong một tuần, các
phiên học ôn nên cách nhau từ 12 đến 24 giờ đồng hồ. Để nhớ một điều gì đó
trong năm năm, các phiên học nên cách nhau từ 6 đến 12 tháng. Mặc dù không có
vẻ gì là như thế, nhưng thực sự là bạn có thể ghi nhớ được thông tin ngay cả
trong những khoảng thời gian dài, và bạn có thể học lại một cách nhanh chóng
những gì bạn đã quên. Khoảng cách dài giữa các lần ôn bài là lý tưởng để nhớ
được các khái niệm cơ bản làm cơ sở cho kiến thức nâng cao.
Đánh giá: Phương pháp này có
hiệu quả cao. Việc phân phối thời gian học ôn hợp lý sẽ có hiệu quả cho người
học ở nhiều độ tuổi khác nhau trong việc học tập ở nhiều lĩnh vực khác
nhau. Nó rất dễ thực hiện và đã được sử dụng thành công trong thực tiễn.
3 .
Phương pháp hỏi đáp chi tiết (elaborative interrogation): Khởi nguồn từ bản
tính tò mò của trẻ 4-5 tuổi.
Mô tả
phương pháp: Tò mò là bản năng tự nhiên của con người, chúng ta luôn tìm kiếm
những kiến giải về thế giới xung quanh mình. Một số lượng lớn các bằng chứng
cho rằng thấy rằng gợi ý người học trả lời các câu hỏi “Tại sao?” cũng làm cho
việc học tập dễ dàng hơn.
Trong
phương pháp này, thường được gọi là phương pháp “hỏi đáp chi tiết” (elaborative
interrogation), người học đưa ra câu trả lời cho các sự kiện, chẳng hạn như
“Tại sao điều này có nghĩa là …?” hoặc ” Tại sao điều này lại đúng?” Chẳng hạn,
trong một thí nghiệm, học sinh đọc được câu “người đàn ông đói bụng đã ngồi vào
xe.” Các thành viên của nhóm hỏi đáp chi tiết được yêu cầu giải thích lý do tại
sao, trong khi nhóm khác đã được cung cấp sẵn một lời giải thích, chẳng hạn như
“người đàn ông đói bụng đã lên xe để đi đến nhà hàng.” Nhóm thứ ba chỉ đơn giản
là đọc từng câu trên. Khi được yêu cầu nhớ lại ai đã làm gì (“Ai đã lên xe?”),
trong nhóm hỏi đáp chi tiết có khoảng 72% học sinh trả lời đúng so với khoảng
37% trong các nhóm khác.
Nên
sử dụng khi nào? Khi mà bạn đang học về những thông tin không trừu tượng, đặc
biệt là khi bạn đã có hiểu biết về chủ đề này. Sức mạnh của phương pháp này
tăng lên cùng với lượng kiến thức mà bạn biết về chủ đề. Chẳng hạn, học sinh ở
CHLB Đức sử dụng phương pháp này hiệu quả hơn khi học về các tiểu bang của Đức
so với khi học về các tiểu bang của Canada. Có thể là vì kiến thức có trước về
chủ đề cho phép người học đưa ra lời giải thích phù hợp hơn cho lý do tại sao
một điều gì đó đã xảy ra.
Tác
dụng của phương pháp này có vẻ ổn định theo tuổi tác, từ học sinh lớp bốn cho
đến sinh viên đại học. Phương pháp hỏi đáp chi tiết cải thiện rõ ràng việc ghi
nhớ các sự kiện, nhưng vẫn chưa chắc chắn rằng liệu nó có làm tăng mức độ hiểu
sâu hay không, và không có thông tin kết luận về việc hiến thức được ghi nhớ
kéo sẽ dài bao lâu.
Phương
pháp này có dễ sử dụng không? Câu trả lời là “Có.” Nó chỉ cần việc huấn luyện ở
mức tối thiểu và thời gian tiêu tốn là ở mức hợp lý. Trong một nghiên cứu, một
nhóm hỏi đáp chi tiết cần 32 phút để làm một nhiệm vụ mà một nhóm chỉ đọc cần
28 phút.
Đánh giá: Phương pháp này có
hiệu quả vừa phải. Nó áp dụng được cho khá nhiều chủ đề khác nhau, nhưng có thể
không hữu ích lắm đối với các chủ đề trừu tượng. Đối với người học chưa có kiến
thức trước về chủ đề đang học thì lợi ích của phương pháp có thể bị hạn chế.
Nghiên cứu thêm về phương pháp này là cần thiết để xác định xem liệu nó có thể
áp dụng rộng rãi hơn vào các tình huống khác nhau, và các loại thông tin khác
nhau nữa hay không.
4 . Phương pháp Tự Giải thích (Self-Explanation): Làm sao tôi biết?
Mô tả phương pháp: Người học
phải đưa ra lời giải thích cho những gì họ học, xem xét quá trình tư duy đối
với những câu hỏi kiểu như “Câu văn này cung cấp thông tin mới gì cho bạn?” “Nó
có liên quan như thế nào đến những gì bạn đã biết?” Tương tự như phương pháp
nêu câu hỏi và trả lời, phương pháp tự giải thích có thể giúp tích hợp hiệu quả
thông tin mới học được với kiến thức đã có sẵn.
Lứa
tuổi nào sử dụng được? Phương pháp này mang lại lợi ích cho người học từ bậc
mẫu giáo cho đến sinh viên đại học, và giúp ích cho việc giải toán cũng như
giải các câu đố cần suy luận logic. Nó có thể được dùng để học các chuyện kể
cũng như học để thông thạo các chiến lược tàn cục trong cờ vua. Ở trẻ em,
phương pháp tự giải thích có thể giúp ích trong việc học những khái niệm căn
bản như việc học các con số hoặc hình mẫu. Phương pháp này cũng giúp cải thiện
trí nhớ, giúp hiểu sâu và giúp giải quyết vấn đề – tác dụng của nó rất đa dạng.
Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu chỉ đo các tác dụng chỉ trong vòng vài phút,
và ta không biết liệu hiệu quả của nó có kéo dài được lâu hơn đối với những
người kiến thức hơn cao hoặc thấp hơn hay không.
Phương
pháp này có dễ sử dụng không? Câu trả lời là không rõ ràng. Một mặt, hầu hết
người học chỉ cần được hướng dẫn ở mức tối thiểu và thực hành ít hoặc không
cần. Một bài kiểm tra của học sinh lớp chín cho thấy rằng những học sinh không
được huấn luyện có xu hướng chỉ diễn giải lại điều được học chứ không phải là
đưa ra lời giải thích thật sự. Mặt khác, một vài nghiên cứu cho thấy rằng phương
pháp này tiêu tốn nhiều thời gian, tăng nhu cầu thời gian từ 30 đến 100% so với
các phương pháp khác.
Đánh giá: Phương pháp tự giải
thích có lợi ích vừa phải. Nó áp dụng được cho các môn học khác nhau và cho
nhiều độ tuổi khác nhau đáng kể. Các nghiên cứu tiếp theo phải xác định được
xem liệu những tác dụng của phương pháp này có lâu bền, và thời gian tiêu tốn
nhiều cho nó là có đáng giá hay không.
5 . Thực hành xen kẽ (Interleaved Practice): Trộn táo với cam
Mô tả phương pháp: Một cách
trực quan, người học thướng có xu hướng chia việc học ra thành các khối kiến
thức, hoàn thành xong việc học một chủ đề hoặc một dạng bài tập trước khi
chuyển sang phần tiếp theo. Nhưng nghiên cứu gần đây đã chỉ ra lợi ích của
phương pháp thực hành xen kẽ. Trong đó, học viên sẽ học luân phiên các chủ đề
hay các dạng bài toán khác nhau. Chẳng hạn trong một nghiên cứu, các sinh viên
đại học đã học cách tính thể tích của bốn dạng vật thể khác nhau. Đối với
phương pháp chia việc học thành khối kiến thức, họ phải hoàn thành tất cả các
bài tập đối với một dạng vật thể trước khi chuyển sang dạng vật thể tiếp theo.
Trong phương pháp thực hành xen kẽ, các bài toán về 4 dạng đã được trộn xen kẽ
với nhau. Trong bài kiểm tra thực hiện một tuần sau đó, nhóm sử dụng phương
pháp thực hành xen kẽ làm chính xác hơn 43% so với nhóm học theo phương pháp
chia khối kiến thức. Việc học xen kẽ các kiến thức giúp người học có được kĩ
năng lựa chọn phương pháp phù hợp và khuyến khích họ so sánh các dạng bài tập
khác nhau.
Khi
nào nên sử dụng phương pháp này? Khi các dạng bài tập tương tự nhau, có lẽ là
vì bằng cách để chúng ở gần nhau thì dễ thấy sự khác biệt giữa chúng hơn.
Phương pháp thực hành theo khối kiến thức – làm việc trên tất cả các bài toán
cùng vào một chủ đề – có thể hiệu quả hơn khi mà các bài toán có sự khác nhau
nhiều, bởi vì khi đó nó làm nổi bật những điểm chung giữa chúng.
Phương
pháp thực hành xen kẽ có thể chỉ mang lại lợi ích những người đã đạt đến một
trình độ nhất định. Tác dụng của phương pháp này cũng lẫn lộn cho nhiều loại
nội dung học tập khác nhau. Nó giúp cải thiện kết quả học tập đối với các bài
toán đại số, và có hiệu quả đối với một nghiên cứu trong việc đào tạo sinh viên
y khoa khả năng diễn giải kết quả chẩn đoán chứng rối loạn tim mạch. Có hai
nghiên cứu về việc học ngữ vựng cho thấy phương pháp này không có hiệu lực mấy.
Tuy nhiên, với những khó khăn mà nhiều học sinh gặp phải ở môn toán, phương
pháp này vẫn có thể là một chiến lược học tập rất có giá trị cho riêng môn này.
Nó
có dễ thực hiện không? Câu trả lời có vẻ là “Có.” Một sinh viên có động cơ học
tập có thể dễ dàng sử dụng phương pháp thực hành xen kẽ mà không cần bất kỳ
hướng dẫn nào. Giáo viên cũng có thể sử dụng phương pháp này trong lớp học: Sau
khi đưa ra một dạng bài tập (hoặc chủ đề), bước thực hành đầu tiên của phương
pháp tập trung vào dạng bài đó. Ngay khi đưa ra dạng tiếp theo, cần trộn lẫn
bài tập dạng này với bài tập của dạng trước. Phương pháp này có thể tốn nhiều
thời gian hơn một chút so với phương pháp chia khối kiến thức, nhưng như thế
vẫn đáng giá, vì nó giúp nâng cao thành tích học tập.
Đánh giá: Phương pháp thực hành
xen kẽ có tác dụng vừa phải. Nó giúp cải thiện việc học tập và ghi nhớ các kiến
thức toán học, và tăng cường các kỹ năng nhận thức khác. Mặc dù lượng tài liệu
về phương pháp này là ít, nhưng trong đó cũng đã có đủ kết quả tiêu cực để ta
cần phải bận tâm khi sử dụng nó. Có thể là phương pháp này không hoàn toàn tốt,
hoặc có lẽ không phải lúc nào nó cũng được sử dụng một cách thích hợp – đây là
những đề tài cho nghiên cứu tiếp theo.
Bài học rút ra
Tại
sao người học không sử dụng các phương pháp học tập hiệu quả hơn? Có vẻ như họ
đã không được dạy những chiến lược tốt nhất, và cũng có lẽ vì bản thân người
dạy cũng không được đào tạo về các phương pháp đó. Chúng tôi đã khảo sát sáu
cuốn sách giáo khoa tâm lý giáo dục học, và thấy rằng chỉ có một phương pháp –
“học thuộc các từ khóa” – được xét đến trong mỗi cuốn. Không ai được hướng dẫn
nhiều về cách sử dụng, tính hiệu quả hoặc sự hạn chế của các phương pháp học
tập khác nhau.
Vấn
đề thứ hai có thể là vì hệ thống giáo dục nhấn mạnh vào việc dạy cho người học
các kỹ năng tư duy phê phán, và nội dung kiến thức, dành ít thời gian cho việc
dạy phương pháp học tập. Điều này dẫn đến kết quả có thể là những học sinh có
thành tích tốt trong những năm đầu đời, khi việc học tập được giám sát chặt
chẽ, có thể gặp khó khăn một khi họ sẽ phải tự quản lý việc học của mình ở
trường trung học hoặc đại học.
Một
số vấn đề, chẳng hạn như độ tuổi tốt nhất để học sinh bắt đầu sử dụng một
phương pháp nào đó, và khoảng bao lâu họ sẽ cần phải được huấn luyện lại hoặc
nhắc nhở về phương pháp, vẫn cần được nghiên cứu thêm. Nhưng ngay từ bây giờ,
người dạy đã có thể tích hợp các phương pháp học tập thành công nhất vào trong
giáo án để người học có thể theo đó mà sử dụng. Ví dụ, khi chuyển đến phần kiến
thức mới, người dạy có thể bắt đầu bằng cách yêu cầu người học làm một bài kiểm
tra thực hành bao gồm những điểm quan trọng ở phần trước và phản hồi bài kiểm
tra của người học ngay. Người học có thể chèn thêm vào giũa những bài toán mới
các bài toán có liên quan ở trong các phần trước đó. Người dạy có thể khai thác
phương pháp phân phối thời gian ôn tập hợp lý (distributed practice) bằng cách
đưa ra lại các khái niệm chính trong quá trình dạy. Họ có thể giúp người học sử
dụng phương pháp đặt câu hỏi và trả lời (explanatory questioning) bằng cách gợi
cho người học xem xét trả lời cho những câu hỏi “Tại sao?”
Những
phương pháp học tập này không phải phương thuốc chữa bá bệnh. Chúng chỉ đem lại
lợi ích cho những người học có mục tiêu, và có khả năng sử dụng chúng. Tuy
nhiên, chúng tôi hy vọng rằng người học sẽ thu được nhiều ích lợi trong hoạt
động trên lớp, trong các bài kiểm tra, và trong suốt cuộc đời họ.
Tác giả: John
Dunlosky , Katherine A. Rawson , Elizabeth J. Marsh , Mitchell J. Nathan và
Daniel T. Willingham.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét